Tuesday, February 21, 2017

VUA GIA LONG VÀ LÃNH THỔ NƯỚC VIỆT NGÀY NAY

VUA GIA LONG VÀ LÃNH THỔ NƯỚC VIỆT NGÀY NAY
AuthorNguyễn Cậu BốnPosted on: 217-02-20
Từ Hà Tĩnh vào Quảng Binh thì phải qua đẻo Ngang, dãy Hoành Sơn, đèo nổi tiếng với bài thờ bà Huyện Thanh Quan
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà....
và đi đường biển thì qua truông nhà Hồ  Chính nới đây, người Chiêm Thành hay người Chàm (1), một nhóm dân di cư từ Ấn-Độ, tức Thiên-Trúc, lập một vương quốc có nhiều vùng tự trị chạy từ Phan Rang cho đến biên giới Quảng Bình. Các vua Đại Việt cũng dừng chân tại đây, vì người Việt không phải là dân tộc nguyên thuỷ chuyên đánh giặc và di chuyển bằng thuyền. Khi vua nhà Lê gã công chúa Huyền Trân cho Chế Mân năm 1307 thì người Chàm còn sinh sống rải rác vùng Quảng Trị và trấn cuối cùng ở Mỹ Sơn (Duy Xuyên, Quảng nam) và Phan Rang, và kinh đô đóng ở Trà Bàng (qua cửa Thị Nại, An Nhơn, Bình Định).
Tôi xin mở một ngoặc đơn : Người Chàm sống từ Phan Rang đến Quảng Trị di cư từ xứ Champa (Ấn Độ) đi tàu theo đường biển, giữ đạo Bà-La-Môn và theo chế độ mẫu hệ ; còn người Chàm sinh sống vùng Châu Đốc, biên giới Cao Mên đến từ Mã Lai, phần đông theo đạo Hồi.
Còn phá Tam Giang ở cửa sông Ô Lâu chảy ra biển nằm ở giữa tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên.
Yêu em anh cũng muôn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang.

CUỘC NAM TIẾN VÀ CÔNG TRÌNH
CHÚA NGUYỄN
Như vậy, người dân ở vùng Thanh Hoá muốn vô thăm em lai Chàm (ví dụ) ở Cửa Hàn (Đà Nẵng), phải qua nhiều gian truân. Còn Huế thì chưa hình thành vảo thời gian này. Phải đợi cho đến cuộc tranh chấp với Trịnh Kiểm, chúa Nguyễn Hoàng, con đại thần Nguyễn Kim của triều Lê, cũng là công thần nhà Lê như Trịnh Kiểm, nghe lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm
Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân mới đem người thân thích và dân vùng Thanh Hoá tiến vào Nam lập nghiệp từnăm 1558. Dân  các tỉnh lân cận phía Nam như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình cũng đi theo chúa Nguyễn Hoàng. Do đó chúng ta thấy có đủ họ những người mà tôi đã quen trong đời như Tống, Mã, Mai, Mạc, Hồ, Tăng, Phạm, Quan, Cù, Tạ, Bồ, Đinh, Hoàng (Huỳnh),Đỗ (Đậu), Trang, Khổng, Lương, Khúc, Khương, Thân, Hứa, Lâm, Chu (Châu), Chung, Âu, Thẩm (Tăng, Trần), Cao, Bành, Văn, Phó, Nghiêm, Tôn, Chữ, Đặng, Đào, Đoàn, Diệp, Đàm, Vũ (Võ), Trương, Lữ, Phan, Ngô, Trịnh, Phùng, Đái (Đới), Tô, Dương, Giang, Bạch, Hồng, Thái, Hà, Quách, Vương, Khuất, Cái, Ông, Linh và dĩ nhiên các họ Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn. Chúng ta không cần phải nói người đó là gốc Tàu hay không, vì dân Việt thuộc tộc Kinh đi xuống từ vùng Tây Nam và Đông Nam nước Tàu và pha trộn với dân bản xứ gốc Mường, Chàm hay Austro-Mã Lai hay Môn-Khơ-Me đã sống ở miền núi từ trước khi người Kinh đến ở vào thế kỷ trước Công nguyên. Bạn có bao giờ đặt câu hỏi là nữ hoàng Anh Elisabeth II  hay vua Tây Ban Nha Juan-Carlos (2) gốc người gì không. Vấn đề di cư và lai là chuyện bình thường trong xã gội cận đại, nhất là ở các nước nằm trên trục giao thông đường biển như Việt Nam. Còn chuyện các doanh nhân "Đỏ" XHCN VN mua quốc tịch Malta, Hung-Gia-Lợi, Úc, Tiệp-Khắc... lại là chuyện khác.
Cuối thế kỷ XVI, người Việt, dưới thời chúa Nguyễn, và nhờ vai trò và sáng kiến chúa Nguyễn Hoàng, đã đến lâp nghiệp từchân đèo Cù Mông, biên giới giữa Bình Định và Phú Yên. Ở giữa thế kỷ XVI, nước Việt, về vấn đề chính trị, sống trong hổn loạn nội chiến; phía Bắc có vua Lê và vua Mạc, và phía Nam bên kia sông Gianh có chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Hoàng, thọ 89 tuổi và cai trị Đàng Trong trong vòng 56 năm kể là người sáng lập triều Nguyễn Phước. Chúa Hoàng có quân sư là Đào Duy Từ, sau này gia đình di cư vô sống ở xã Hoài Châu, gần Tam Quan, Bình Định, cũng như gia đình đại văn hào Đặng Đức Siêu ngụ ở quận Hoài Ân gần đó. Chúa Nguyễn Hoàng đặt kinh đô ở Phú Xuân, Huế. Hai Chúa Trịnh và Nguyễn đánh nhau trong vòng  hơn 2 thế kỷ mà không phân thắng bại. Chính trong thời này, các nhà truyền giáo Ki-Tô giáo mà nhóm Phật giáo quá khích "chống Tây phương Tả đạo" của Giác Hạnh, Trần Quang Diệu, Góp Gió gọi là "đạo Ca-tô"), gốc Bồ-Đào-Nha, Tây-Ban-Nha, Ý và Pháp đến đạo ở Đàng Trong và Đàng Ngoài. Chữ quốc ngữ bắt nguồn từ đấy.
Từ Huế, các chúa Nguyễn cổ xuý dân vào miền Nam sinh sống và lập nghiệp, vùng đất phì nhiêu, màu mỡ, nguyên là vùng đất của Thuỷ Chân-Lạp (Cao Miên). Cũng chính trong thời này, một số ngưòi Hán gốc nhà Minh không phục tùng nhà Mãn Thanh, một dân tộc man-di vùng cực Đông Bắc Trung Hoa, di cư lập nghiệp từ Sài-gòn cho đến Cà Mau. Đó là thời kỳ các dân tộc Kinh, Miên, đồng bào thiểu số, Chàm, Hoa-kiều sống hoà hợp tại miền Nam.
Nhưng năm 1771, nhà Tây Sơn (gốc An Khê, Bình Định) có ba anh em nổi dậy, và Nguyễn Huệ, một "nông dân" buôn bán tài trí và thông minh như Napoleaon Bonaparte, đã dùng voi toàn thắng quân nhà Thanh xâm lăng ở trận quyết liệt ở Đống Đa, đúng vào năm Cách Mạng Pháp, cũng là năm Kỷ Dậu. Chính vua Quang Trung Nguyễn Huệ đã thống nhất đất nước và tạo cơ hội cho vua Gia Long kết thúc cuộc thống nhất này vào năm 1802, vì triều đình Tây Sơn chỉ cai trị trong vòng 25 năm.
Như vậy ai đã đưa bờ cỏi đất nước Việt Nam cho đến đảo Phú Quốc, Côn Đảo như chúng ta thấy ngày nay ?  Chính là công trình chúa Nguyễn Phước, đặc biệt chúa trai trẻ Nguyễn Ánh.
CẦN XÉT LẠI LỊCH SỬ CHO ĐÚNG TẦM VÓC.
Năm, 1772, hoàng tử Nguyễn Ánh, chưa đầy 13 tuổi, không phục nhà Tây Sơn, thân chinh vô miền Nam, hoạt động chính trị giúp nhà Nguyễn Phước ở vùng Hà Tiên với một số tuỳ tùng thân tín và vài ngàn binh lính. Hà Tiên lúc đó là đất của Mạc Thiên Tứ (hay Tích), con của Hoa kiều đại gia gốc Quảng Đông, Ông Mạc (Kính) Cửu. Chúa Nguyễn đã nhờ Mạc Thiên Tứ để bình định vùng đất mà người Mã Lai và Thái Lan dòm ngó.Chúa Nguyễn bị nhà Tây Sơn tầm nã nên phải chạy xuôi ngược trên các đảo ngoài biển. Trong thời gian này, giáo sỹ Thừa Sai Paris, Pierre Pigneau de Béhaine (3), thuộc gia đình quý tộc phía Bắc Paris, nhưng linh mục muốn đi truyền giáo ờ vùng Ấn độ Pondichéry, Thái Lan và Việt Nam. Được phong giám mục lúc 30 tuổi, Đức cha Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) đã đào tạo được một số chủng sinh người Thái và Việt và có linh mục Phao-Lô Nghị tuỳ tùng. Đức cha tự học tiếng Việt và năm 1775, ngài đã in quyển tự điển Việt-La-tinh ờ Pondichéry. Ngài rong ruổi với bao cực nhọc để truyền giáo cho người Việt, người gốc Tàu và Miên ở Hòn Đất,trên các đảo nhỏ và vùng Hà Tiên.
Cuối năm 1775, quân Tây Sơn từ Quy Nhơn đánh đến Long Xuyên và lùng giết gia đình chúa Nguyễn Phúc Thuần. Hai người con bị giết và Chúa Nguyễn Ánh thoát được nhờ Giám mục Bá-Đa-Lộc cứu trong một đêm nọ. Chúa Nguyễn Ánh bôn ba từ đảo này qua đảo nọ và quyết chí chờ thời. Trong khi đó, "Cha Cả" (có nghĩa "archiprêtre", được gọi "Monseigneur") Bá-Đa-Lộc lập chủng viện ở Tân Triều và thỉnh thoảng chúa Nguyễn Ánh có lén đến thăm Đức cha. Nhưng năm 1782, quân Tây Sơn tấn công ráo riết và chúa Nguyễn Ánh và độ 1000 lính và tuỳ tùng phải tháo chạy, và năm 1784 Nguyễn Ánh (luôn luôn đem theo hoàng tử Cảnh) và Đức cha phải đến đảo Phú Quốc tạm trú để kháng chiến. Đức cha đã cứu chúa Ánh ở Long Xuyên và ngài không nỡ bỏ cha con Chúa Nguyễn trong hoàn cảnh này. Đức Cha đề nghị đưa hoảng tử Cảnh, vừa 5 tuổi, và đoàn tuỳ tùng chưa đến 10 người đến Lorient ngày 5 tháng 2, 1787, được yết kiến vua Louis XVI ở điện Versailles ngày 6 tháng 5. Hoàng tử Cảnh có dịp chơi vui đùa với con vua Louis XVI. Dĩ nhiên là phải có người hầu và thông dịch viên.
Với tài ngoại giao của Đức cha -- còn phải điều đình với chính quyền Anh ở  Ấn Độ --, Đức cha đã được triều đình Pháp chấp thuận giúp chúa Nguyễn. Phe Phật Giáo quá khích và Cộng sản VN lúc nào cũng nói học câu nằm lòng : Triều đình nhà Nguyễn đã ">cỏng rắn cắn gà nhà" (= bán nước) và đem đạo ngoại lai vào nước ta (= đạo Catô Tây phương). Chúng ta nên nhớ là khi người phương Tây đến VN ở thế kỷ XVI, XVII, XVIII, họ đã thấy có hai nước có tên là Đàng Trong và Đàng Ngoài. Tiếng nói là tiếng Việt với phát âm tuỳ vùng và chữ viết là chữ Nho mà chỉ một số ít quan lại và văn sỹ đọc được mà thôi, còn chữ Nôm thì lai còn rất hiếm ngưởi biết viết và đọc.
Chúng ta chỉ tiếc là vua Quang Trung băng hà sớm và triều Tây Sơn rơi vào tình trạng nội lọan trong hoàng tộc giống như bao nhiều triều khác trong lịch sử Việt Nam. Vua Hồ Quý Ly, có tài tổ chức hành chánh, nhất là trong vấn đề đúc tiền, nhưng thời gian cai trị quá ngắn cũng là một trường hợp.
Khi bàn đến vấn đề tôn giáo, tôi xin nhắc lại rằng Ki-Tô giáo (hay Thiên Chúa giáo hay Công giáo, danh xưng hiện nay), cũng như Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Bà-La-Môn, Hồi Giáo không phải là đạo chính gốc của người Việt Nam. Về sau, chỉ có đạo Cao Đài và Hoà Hảo là phát sinh ở Việt nam mà thôi ! Như vậy chúng ta không thể nói đạo Ki-Tô là đạo ngoại lai độc nhất ở Việt Nam. Có một lý do : Vì ngươi Tàu đô hộ nước Việt trong vòng 10 thế kỷ nên chi Khổng, Lão và Phật giáo được truyền đạo sớm ở Việt Nam. Rồi các nhóm Phật giáo quá khích ở Hoa Kỳ và Úc lại còn tính thay chữ viết quốc ngữ (ngoại lai !) bằng chữ Nho hay Nôm -- cũng gốc ngoại lai vậy !-- và sẽ không biết có bao nhiêu người có thể viết và đọc được. Chúng ta nên nhớ là chữ viết chỉ là phương tiện ghi lại sự kiện và lời nói để trao đổi và lưu lại cho đời sau. Tất cả các nước trên thế giới đều chấp nhận một trong ba gia đình ngữ-tộc qua mẫu tự gốc : Semit- Canaan, Phạn (Sanskrit) và Hán. Mẫu tự La-Tinh ngày nay đã trở thành biểu tượng quốc tế (85%) thấy mọi nơi. Nếu nước Thổ-Nhĩ-Kỳ dùng mẫu tự La-Tinh ra đời từ chưa đầy 1 thế kỷ và không thấy nhục, thì tại sao chúng ta lại cảm thấy nhục khi dùng quốc-ngữ (ra đời tử nửa thế kỷ XVI !). Có nhóm Giao Điểm với Giác Hạnh, Trần Quang Diệu, Góp Gió... hay chửi bới Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Ngọc vì các học giả này là những người vừa có Tây học vừa cỏ lòng khuyếch trương chữ quốc ngữ, và về mặt văn hoá và chính trị thì các nhóm quá khích này không ngớt nhục mạ Cụ Lục, tức cha Sáu Trần Lục (4), Cụ Ngô Đình Diệm, những người có công với đất nước chỉ vì hai nhân vật này theo đạo "Ca-Tô". Tôi chưa thấy các nhóm này viết được chữ Nho hay Nôm trên Mạng Xã Hội. Lý do : Chỉ vì chính CS Hà Nội, tay sai của Trung Cộng, chưa thực hiện được chữ Nho hay Nôm trên Web (mails, facebook, tweet,...). Trường Chinh hay Tố Hữu có sống lại cũng phải nản chí, vì số trong người Việt ờ trong xứ và trên cả thế giới cũng chỉ được hơn ngàn người biết đọc và viết chữ Nho, còn chữ Nôm chắc chưa đến 100 thông thạo hoàn toàn.
THẾ NÀO LÀ BÁN NƯỚC ?
Khi CS chiếm miền Nam, chính quyền Hà Nội, rập theo mẫu mực Tàu Cộng, xoá bỏ hết những tên đường của các vua, biến cố lịch sử và danh nhân liên quan đến nhà Nguyễn Phước. Họ thay vào những "anh hùng" có liên quan đến Nước Tàu đô hộ hay làm lợi cho CS quốc tế (như Félix Dzerjinski) hay những "anh hùng"  dùng súng trường bắn (rơi ! ) máy bay B 52 hay "anh hùng "Việt gian gián tiếp giết được "bè lũ đế quốc Mỹ" và nguỵ" như Thích Quảng Đức, Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Trổi.... Trong lịch sử VN, chúng ta đã có vua Lê Chiêu Thống, Tôn Thất Thuyết và "đồng chí" Đảng CSVN Hoàng Văn Hoan....sang Tàu cầu viện.
Khi nói đến vấn đề liên minh giữa các nước từ thế kỳ XIX trở đi, việc kêu gọi một nước bạn giúp đỡ không phải là chuyện bán nước. Nếu các nước châu Âu và và nhiều nước trên thế giới không có Hoa Kỳ giúp đỡ thì số phận những nước này sẽ ra sao ? Trường hợp Tây Âu trong 2 đại chiến và các nước châu Á như Nhật, Đại Hàn, Phi Luật Tân... là bằng chứng. Trong khi chúa Nguyễn Phước Ánh, tức vua Gia Long sau này, có công mở rộng bờ cỏi nước Việt cho đến các đảo vịnh Thái Lan, thì CSVN lại "nhường" đất và đảo cho đàn anh CS Tàu. Như vậy, ai thật sự bán nước ? Chúng ta đồng ý là người Pháp (cũng như bất cứ một đế quốc chiếm thuộc địa trên thế giới) đều bắt chẹt dân bản xứ. Nhưng người Pháp không có tàn ác bằng CS theo kiều Sô-Viết/Mao. Và người Pháp cũng đã làm cho dân Việt  mở mắt. Công trình kiến thiết và tổ chức văn hoá cũng còn đó. Chỉ có những người quá khích như Giác Hạnh, Trần Quang Diệu hay Võ văn Sáu.. mới chối bỏ sự thật này vì họ gắn liền công trình của người Pháp ở Đông Dương với đạo"Ca-tô Roma". Phải chi những người quá khích này sống tại VN với Đảng CS thì không nói gì ; đàng này họ sống thoải mái ở các xứ "đế quốc thực dân", những nước có lần đã đem quân "chiếm" miền Nam, và họ không từ chối nhờ ân huệ của các nước "tư bản" này để sống tự do nói, tự do viết cho đả. "Ngu gì" về sống ở nước CHXHCN để phải câm miệng và còn bị tù nữa !
Chúng ta thử đưa ra một giả sử mà không có câu trả lời : Nếu không có người Pháp đô hộ Đông Dương (như người Anh ở Ấn Độ) và đưa văn minh và tiến bộ phương Tây vào VN trong tình trạng hủ lậu của triều đình nhà Nguyễn, thì thử tưởng tượng nước VN chúng ta sẽ ra sao ở đầu thế kỷ XX vừa qua ? Để so sánh với 2 nước có ảnh hưởng Hán-học là Đại Hàn và Nhật. Riêng về Nhật Bản, chính Minh Trị Thiên-hoàng đã "mở mắt" sớm, trong khi vua và triều đình nhà Nguyễn, nhất là thời vua Tự Đức (với tứ trụ triều đình "Tường gian, Viêm láo, Khiêm khùng, Thuyết ngu"), chỉ biết thơ phú và không màng đến những sớ dâng lên vua xin cải cách của Nguyễn Trường Tộ (người Nghệ An), Lm Đặng Đức Tuấn (người Bình Định).... Triều đình Huế rập theo khuôn mẫu triều Mãn Thanh.  Rồi đến lượt Đảng Cộng Sản Hà Nội theo đúng mẫu CS Bắc Kinh. Nếu không có sự ủng hộ và tài tài trợ của khối CS quốc tế -- và toan tính ngầm "bắt tay " với Hoa Kỳ -- thì CSVN chẳng bao giờ thắng trận Phủ Điện Biên hay chiếm được Miền Nam. Độc giả thử đặt câu hỏi này với những trí thức người Việt đã ủng hộ MTGPMNVN và đang sống ở ngoại quốc. Bà Nguyễn Thị Bình, đang cửu tuần, khi chết sẽ không nhắm mắt vì biết mình đã bị gạt. Quá muộn ! Cũng như CSVN đã gạt Ls Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Bs Dương Quỳnh Hoa, Trần Văn Trà, Đinh Bá Thi, Xuân Thuỷ và vân vân.
Chúa Nguyễn đã mở mang bờ cỏi nhờ tài ba của chúa Nguyễn Ánh để cho miền cực Nam VN khỏi rơi vào tay Hoa Kiều, Cao Miên, Mã Lai và Thái Lan. Gần 2 thế kỷ sau, Đảng CSVN làm chuyện ngược lại, phản dân tộc. Chỉ vỉ một ý thức hệ ngoại lai và mơ hồ -- cũng do một ngừời gốc Do Thái bày ra, ông Karl Marx -- và ý thức hệ này hiện giớ chỉ là bức bình phong để cho các đồng chí vô sản trở thành tư bản đại gia (giàu vì tham nhũng và cướp của của dân) và đàn áp  nhân dân để nhân dân trở thành vô sản thât sự. Các "Cụ" Các-Mác và Lê-Nin nếu có sống lại thì chắc hai ông sẽ hối hận đến không muốn chết lần thứ hai. ... để biến Đảng CS thành đảng tư bản chuyên chính cho đúng thực trạng ngày nay ờ Trung Hoa và Việt nam.
____________________________
(1) Chính quyền CS cho rằng từ "Chàm" nghe không đẹp, nên đổi ra "Chăm". Chàm là màu cây tràm, và người Bắc phát âm ra chàm. "Chàm" không có gì xấu xí cả vì người Việt có thói quen thêm dấu để phát âm cho nghe xuôi tai. Từ Chàm đã có từ lâu. Cũng như chính quyền CS gọi dân sống vùng thượng du là người "dân tộc". Thay vì nói dân tộc thiểu số, họ chỉ gọi là dân tộc. Vậy người Kinh không phải là dân tộc à ? Vậy thì "heo mọi" (tiếng người Bình Định gọi loại heo đen nhỏ và dể thương, thịt ngon) phải gọi "heo dân tộc" cho hợp !
(2) Nữ hoàng gốc người Đức và vua Tây Ban Nha gốc Hy Lạp.
(3) Đức giám mục Bá Đa Lộc qua đời ở Qui Nhơn ngày 9 tháng 10, 1799, đúng lúc quân chúa Nguyễn Ánh tấn thành Bình Định, nơi cuối cùng nhà tây Sơn còn đồn trú.
(4) Lm Trần Lục, người cùng xứ với thi hào Nguyễn Công Trứ, đã là một vĩ nhân, theo lời Trần Trọng Kim. Cụ Sáu đã được lòng vua Tự Đức và được phép tổ chức kiến trúc, xây cất, đã có ý kiến trúc theo môi truờng (như nhà thờ Phát Diệm), tổ chức kiến thiết và định cư cho dân sống vùng Phát Diệm, Kim Sơn, giống như ông Georges Haussmann Pháp tổ chức quy củ trung tâm thánh phố Paris cùng một thời với cụ Trần Lục.

0 comments:

Powered By Blogger